Khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn có ý nghĩa và giá trị lịch sử to lớn, có vị trí hết sức quan trọng về văn hóa nghệ thuật của khu vực Đông Nam Á. Trước giá trị toàn cầu của di sản văn hóa phải mang lại lợi ích cho cả nhân loại, ngày 4 tháng 12 năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được đưa vào Danh sách Di sản Văn hóa Thế giới.
Khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn có ý nghĩa và giá trị lịch sử to lớn, có vị trí hết sức quan trọng về văn hóa nghệ thuật của khu vực Đông Nam Á. Trước giá trị toàn cầu của di sản văn hóa phải mang lại lợi ích cho cả nhân loại, ngày 4 tháng 12 năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được đưa vào Danh sách Di sản Văn hóa Thế giới.
Để có thể di chuyển được đến nơi đây, du khách có thể đi bằng xe máy, xe ô tô, … con đường di chuyển đến đây cũng khá là dễ đi nên sẽ không làm khó du khách đâu. Đối với những ai yêu thích khám phá, đam mê đi phượt thì có thể lựa chọn di chuyển bằng xe máy để trên đường đi có thể hòa mình vào thiên nhiên và ngắm nhìn những khung cảnh núi non hùng vĩ nhất hai bên đường. Quãng đường di chuyển từ Đà Nẵng đến thánh địa Mỹ Sơn có rất nhiều khung cảnh bắt mắt sẽ làm cho hành trình khám phá của mọi người trở nên ý nghĩa và hấp dẫn hơn đấy.
Để đến được thánh địa Mỹ Sơn, trước hết bạn phải có mặt tại Quảng Nam. Có 3 cách di chuyển phổ biến, gồm:
Sau khi đặt chân đến Quảng Nam, dưới đây là tuyến đường đến thánh địa Mỹ Sơn mà bạn có thể tham khảo: Xuất phát từ đường quốc lộ 1 > chạy thẳng hướng Nam, tới thị trấn Nam Phước > đường 537 > Trà Kiệu > đi thẳng 12km nữa là đến biển chỉ dẫn đường tới Mỹ Sơn > đi theo đoạn đường núi là tới Khu thánh Địa Mỹ Sơn. Đoạn đường này tuy xa hơn so với những tuyến đường khác nhưng rộng rãi và ít gập ghềnh hơn. Phù hợp để di chuyển với bằng cả xe máy hay xe ô tô.
Một điểm nhấn khi đến tham quan tại thánh địa Mỹ Sơn ;mà du khách không nên bỏ lỡ đó chính là con đường cổ nghìn năm ở Thánh Địa Mỹ Sơn. Đây là con đường đã được các chuyên gia người Ấn Độ phát hiện trong quá trình khai quật; và trùng tu khu di tích này. Con đường này rộng đến 8m; theo những tài liệu xưa cũ ghi chép lại thì đây chính là con đường để vua chúa thời xưa di chuyển đến khu đền tháp trung tâm để cúng tế; và tiến hành các nghi lễ quan trọng.
Sau khi được khai quật lên ở độ sâu côn vùi tới hơn một mét; các chuyên gia đều phải hết sức thám phục trước những đường nét tinh sảo; và khéo léo mà người xưa đã dày công xây dựng để có được một con đường đầu tính nghệ thuật như thế. Con đường được xây dựng từ nguyên liệu chính là đất nung ;và các phụ gia; và sự kết dính đặc biệt mà đến nay vẫn chưa có lời giải đáp. Người xưa phải nói rằng hết sức khéo léo và tài tình để có thể tạo ra những công trình kiến trúc đặc sắc đến thế.
Quần thể di tích thánh địa Mỹ Sơn không chỉ đặc sắc; với những nét kiến trúc mang đậm văn hóa Champa; những điệu múa cổ thu hút sự thích thú tò mò của du khách; hay những dấu ấn văn hóa chưa có lời lí giải cho đến ngày nay; mà còn bởi những dấu tích cổ xưa về một nền văn hóa có bề dày lịch sử. Không chỉ giá trị văn hóa, nơi đây còn chứ đựng những giá trị về cả lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật và điêu khắc; tất cả đã tạo nên một thánh địa Mỹ Sơn đầy độc đáo khiến du khách không thể bỏ lỡ trong chuyến tham quan của mình.
Chỉ cách thành phố Đà Nẵng khoảng 70 km thôi; nếu nếu trong hành trình tìm kiếm những địa điểm du lịch Đà Nẵng thì đừng quên ghi chú thêm địa điểm thánh địa Mỹ Sơn này nhé.
Khu vực vịnh Hạ Long là một trong những cái nôi cư trú của người Việt cổ
Khu vực vịnh Hạ Long là một trong những cái nôi cư trú của người Việt cổ Dựa vào các tài liệu khảo cổ học, thì dấu tích sớm nhất của con người có mặt trong khu vực vịnh Hạ Long thuộc về chủ nhân nền văn hóa Soi Nhụ. Kế tiếp là chủ nhân văn hoá Cái Bèo với mối liên hệ với biển đầu tiên và sau cùng là văn hoá Hạ Long. Văn hoá Hạ Long là một nền văn hoá có vai trò rất quan trọng trong nền văn minh Việt cổ, đánh dấu sự tiếp xúc khá phổ biến của cư dân Việt cổ với nền kinh tế biển, tạo ra nền văn hóa biển đặc sắc ở Việt Nam. Văn hóa Soi Nhụ: Có niên đại cách ngày nay 18.000 – 7.000 năm. Cư dân thời kỳ này cư trú chủ yếu trên các đảo đá vôi thuộc vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long và các hang động ven bờ. Phương thức kiếm sống của họ là săn bắt, hái lượm và khai thác nhuyễn thể nước ngọt với công cụ lao động được chế tác bằng đá có hình dáng không ổn định, kỹ thuật chế tác đơn giản bằng phương pháp ghè đẽo một mặt, phương pháp chặt bẻ và rất ít tu sửa.
Di chỉ khảo cổ hang Soi Nhụ, nơi được phát hiện có dấu tích của người Việt cổ cách đây 14.000 năm
Văn hóa Cái Bèo: Có niên đại cách ngày nay 7000 - 5000 năm. Cư dân thời kỳ này cư trú chủ yếu trên bờ vũng vịnh kín gió, tựa lưng vào núi, mà chủ yếu là núi đá vôi. Độ cao của các di chỉ này so với mực nước biển hiện tại vào khoảng 2-6m. Phương thức kiếm sống của họ trước hết là định hướng khai thác biển ven bờ và sau đó là kết hợp với các phương thức kiếm sống truyền thống như săn bắt thú rừng, thu lượm rau củ, hoa quả trong thiên nhiên. Công cụ lao động rất đơn giản, chủ yếu là các công cụ mũi nhọn. Kỹ thuật ghè đẽo chủ yếu là ghè một mặt và có thể ghè những nhát cách quãng ở mặt đối diện để tạo rìa lưỡi. Gốm Cái Bèo ở giai đoạn đầu thì thô, dày, nặng và loại hình đơn giản. Giai đoạn sau là gốm mịn, văn thừng, loại hình phong phú hơn. Gốm xốp bắt đầu xuất hiện với số lượng ít thể hiện bước phát triển mạnh mẽ của người tiền sử.
Văn hóa Hạ Long: có niên đại 4500 - 3500 năm cách ngày nay và được chia ra làm 2 giai đoạn: sớm và muộn. Giai đoạn sớm: Do biển tiến Holoxen trung (khoảng 6000 - 5000 năm trước), đợt biển tiến này làm mất đi môi trường sống quen thuộc của cư dân văn hoá Cái Bèo, khiến cho một bộ phận cư dân phải di chuyển lên phía Đông Bắc và những vùng đất cao hơn, tại đây, họ tạo nên giai đoạn sớm của văn hóa Hạ Long. Phương thức kiếm sống của cư dân giai đoạn này chủ yếu là săn bắt, hái lượm, canh tác, trồng cây lấy sợi, rau củ quả, tăng cường khai thác biển. Giai đoạn muộn: Do mực nước biển dâng cực đại rồi sau đó rút dần (trong khoảng 4000 - 3000 năm trước). Khi biển lùi, các cư dân văn hóa Hạ Long giai đoạn sớm có sự chuyển cư ngược lại. Theo nước thủy triều, họ tiến dần ra biển. Địa bàn cư trú của cư dân văn hóa giai đoạn muộn tương đối phong phú, bao gồm: hang động, chân núi ven biển, doi cát, các bậc thềm và mặt đồng bằng cổ. Phương thức kiếm sống của cư dân văn hóa Hạ Long giai đoạn muộn đã cơ bản gắn với môi trường biển cả, kết hợp duy trì phương thức kiếm sống trên cạn. Công cụ lao động chủ yếu bằng đá, loại hình độc đáo, thể hiện kỹ thuật chế tác ở trình độ cao. Thời kỳ này phát triển nghề thủ công làm gốm với sự trợ giúp của kỹ thuật bàn xoay, hoa văn trang trí chủ yếu là văn thừng, các dải hoa văn đắp nổi, văn khắc vạch, gắn đắp chân đế. Đồ gốm phát triển mạnh mẽ, nhiều loại hoa văn trang trí tạo ra đặc trưng riêng của văn hóa Hạ Long.
Hiện nay, trên vịnh Hạ Long có một số hang động đang lưu giữ các vết tích văn hóa của người tiền sử như là: hang Tiên Ông, hang Trống, hang Trinh Nữ, hang Bồ Nâu, động Mê Cung, động Thiên Long …Ngoài ra, hang Tiên Ông đang lưu giữ, bảo tồn những hố thám sát, hố khai quật khảo cổ với những trầm tích là vỏ ốc suối (Melania), ốc núi (Cyclophorus), là một trong những bằng chứng sinh động về phương thức cư trú, sinh sống trong hang động của người tiền sử Hạ Long thuộc văn hóa Soi Nhụ.
Khu vực vịnh Hạ Long là nơi ghi dấu lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc trong các thời đại quân chủ Phong kiến Với vị trí chiến lược quan trọng, ngay từ thế kỷ XII (năm 1149) dưới triều vua Lý Anh Tông, trong khu vực vịnh Hạ Long, thương cảng Vân Đồn đã được thành lập. Đây không chỉ là một bến cảng mà là một hệ thống gồm nhiều bến thuyền thương mại trên các đảo quây quần trên vùng vịnh Bái Tử Long. Ngày nay những dấu tích về những bến thuyền cổ còn tìm thấy khá dày đặc, phong phú tại các khu vực đảo Cống Đông, Cống Tây, Vân Hải, Quan Lạn…Hàng vạn mảnh gốm sứ đặc trưng cho các thời kỳ Lý, Trần, Lê, Mạc cùng nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật . Bên cạnh những dấu tích đồ sộ của các thuyền cổ ngày nay chúng ta còn phát hiện nhiều dấu tích của các công trình văn hóa như : đình, chùa, đền, miếu, tháp: chùa Lấm, chùa Trong, chùa Cát và cụm di tích đình, đền, chùa Quan Lạn.
Bức tranh thương cảng cổ lưu giữ tại Bảo tàng Quảng Ninh
Đình Quan Lạn tại đảo Quan Lạn, Huyện Vân Đồn
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, vịnh Hạ Long còn là nơi ghi dấu những chiến công hào hùng của dân tộc từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, đó là: Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán (năm 938), Lê Hoàn đánh thắng quân Tống (năm 981), Trần Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên Mông (năm 1288). Hiện nay, khu vực vịnh Hạ Long còn có nhiều di tích lịch sử và di chỉ văn hoá như: Đình Quan Lạn, chùa Lấm, đền Bà Men... Đặc biệt người dân vùng biển Hạ Long vẫn lưu giữ được những nét văn hoá truyền thống độc đáo, phong phú từ bao đời. Nó được thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ, lễ hội, kinh nghiệm, phản ánh tâm tư, tình cảm được truyền từ đời này qua đời khác.
Rước tượng Đức thánh Trần trong lễ hội Bạch Đằng tại TX Quảng Yên
Lễ hội đền Đức Ông Trần Quốc Nghiễn
Đó là các giá trị văn hoá phi vật thể mang đặc trưng của vùng biển như: Hò, vè, hát đám cưới, hát giao duyên, hò biển và nhiều lễ tục truyền thống như: lễ giở mũi thuyền, tục trồng cây Nêu….Những giá trị văn hoá này hiện vẫn là một “cửa ngỏ”, một “mảnh đất đầy hứa hẹn” cho các nhà nghiên cứu, những người yêu quý, tôn vinh truyền thống văn hoá dân tộc Khu vực vịnh Hạ Long là nơi ghi dấu lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc trong trong thời lịch sử cận, hiện đại Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp: + Hang Đúc Tiền: nằm ở phía Đông Nam đảo Vạn Gió (trên bản đồ có ký hiệu là hòn 376, dân gian gọi là núi Cánh Quít). Đây là căn cứ của nghĩa quân Đề Hồng, Cai Thái, nghĩa quân lập xưởng đúc súng, đúc tiền để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp. + Ngày 1.5.1930, lá cờ đỏ búa liềm tung bay phấp phới trên đỉnh núi Bài Thơ, đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào đấu tranh cách mạng - của giai cấp công nhân vùng mỏ, góp phần đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp. + Ngày 24.3.1946, Hồ Chủ Tịch hội đàm với cao uỷ Pháp Đác-Giăng-Liơ trên chiến hạm Emin-bec-tanh trên vịnh Hạ Long.
Quân Pháp rút khỏi khu mỏ tại Bến Phà Bãi Cháy ngày 24/4/1955
+ Vào đầu những năm 60 của thế kỷ 20, những chuyến tàu không số xuất phát từ khu vực Hạ Long tiến vào Miền Nam mang theo vũ khí, đạn dược…. góp phần vào chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước (Tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển).Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: + Vịnh Hạ Long chứng kiến lần tập kích và thất bại đầu tiên bằng không quân của không lực Hoa Kỳ khi chúng mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc ngày 5.8.1964 cùng với sự kiện bắt sống tên giặc lái Mỹ đầu tiên: phi công An-Va-Ret.
Phân đội tàu trong chiến thắng đầu tiên của Hải quân Nhân dân Việt Nam
Thánh địa Mỹ Sơn là địa danh nổi tiếng mỗi khi bạn đến Quảng Nam du lịch. Đây là di sản văn hóa lịch sử của tỉnh Quảng Nam và nổi tiếng với quần thể kiến trúc đền đài Chăm Pa độc đáo. Khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn được phát hiện vào năm 1885. Và được công nhận là Di sản Văn hóa thế giới bởi UNESCO. Dưới đây là những kinh nghiệm khám phá di tích Mỹ Sơn được chia sẻ bởi Nụ Cười Mê Kông mà bạn có thể tham khảo.